Bỏ qua nội dung

Khi con chiên cờ vàng đòi “đối thoại”

06.02.2012

Xichloviet

Bất cứ ai muốn phản bác hay phủ nhận những sự kiện lịch sử này xin mời lên tiếng” Đó là câu thường thấy trong các bài viết của Tiến Sĩ Trần Chung Ngọc. Câu nói thường được ông đặt trong các bài viết của ông như thách thức những kẻ xuyên tạc lịch sử phản biện lại. Câu này cũng cho thấy sự tự tin tuyệt đối vào những gì mình viết ra và sẵn sàng chịu trách  nhiệm về nó. Điều này chỉ có được ở những trí thức có tâm, có tầm và có bản lĩnh.

Dường như chưa hề có phản biện có giá trị nào ngoài những lời miệt thị bôi nhọ chụp mũ ông. Vì sao? Vì ông đã  làm công việc nghiên cứu rất công phu  để tập hợp rất nhiều những tài liệu bằng nhiều nguồn dẫn chứng tin cậy khắp nơi có sức thuyết phục rất cao để đập lại những luận điệu của các con chiên muốn bẻ cong lịch sử.

Xưa nay dân chống  cộng cờ vàng thường thích sử dụng từ “đối thoại” để “nói chuyện phải quấy “ với những người không cùng quan điểm. Tuy nhiên hầu hết cái gọi là “đối thoại “ của dân cờ vàng nếu không phải là đưa yêu sách cực đoan thì cũng chỉ là chửi bới moi móc để hạ nhục người khác không hề có thiện chí, không hề có chứng cớ và  lý luận tối thiểu.

Chu Tất Tiến là một người như thế. Hắn là con chiên cờ vàng di cư cuồng tín, và dĩ nhiên con chiên này có mối thâm thù cộng sản tận xương tủy. Những bài viết của hắn luôn lồng vào nội dung xuyên tạc chống cộng kịch liệt. Con chiên này là một trong những gương mặt nổi bật đại diện con chiên  chống cộng cho chúa.

Ông Trân Chung Ngọc, một người Việt đang định cư ở Mỹ,  một công chức VNCH, một sĩ quan VNCH, một giáo sư đại học ở Miền Nam VN lại đi  viết bài ca ngợi những chiến công của Việt Minh,  lại đi viết bài phơi bày tội ác giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã thì rõ ràng ông là cái gai nhức nhối trong con mắt con chiên Chu Tất Tiến là điều quá dễ hiểu.

Mới đây Chu Tất Tiến có bài viết đầy giận dữ, với những lời lẽ đường phố nhắm vào ông Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang và một vài người khác. Điều đáng nói là cuối bài viết  hắn “mời”ông Trần Chung Ngọc và ông Nguyễn Mạnh Quang đến “đối thoại” với hắn. Thái độ xấc láo sử dụng chữ “mời” trong ngoặc kép đủ cho thấy hắn chơi đểu, và dĩ nhiên hắn biết chắc sẽ không thể có cuộc “đối thoại” nào như thế xảy ra,  đơn giản chỉ vì các vị này chẳng bao giờ nhận lời một kiểu “mời” du côn đểu cáng như vậy. Cuối cùng  hắn xổ luôn kết luận và chụp luôn cái mũ  là “chúng chỉ là những tên Chí Phèo khốn kiếp làm tay sai cho bọn Cộng Sản mãi quốc cầu vinh”  nếu không nhận lời hắn.

Kiểu lưu manh láu cá mời đểu, mời mà sợ người ta đến, mời mà biết chắc người ta không nhận lời, rồi kết luận rằng nếu không nhận lời là “tay sai cộng sản”  Chu Tất Tiến phần nào đã làm hả dạ những con chiên chống cộng cho chúa lâu nay vô cùng cay cú với các ông TCN và NMQ. Mục tiêu như thế đã thành công.

Những đề tài hắn nêu ra để “đối thoại” gồm :

a-Công Giáo và Vatican là kẻ thù của dân tộc.
b-Lá cờ vàng ba sọc đỏ là của Vatican.
c-Vatican là kẻ từng điều khiển, giật dây chính quyền Ngô đình Diệm, và nay vẫn muốn áp đặt chính sách của Vatican lên đất nước Việt Nam.

Chu Tất Tiến sẽ lo địa điểm và thông tin cho bà con đến dự.

Hãy tưởng tượng nếu có một cuộc “đối thoại”  kiểu như thế thì sao?

Khán phòng sẽ chật cứng con chiên cờ vàng đằng đằng sát khí, cờ vàng sẽ treo kín từ ngoài vào trong. Ông Trần Chung Ngọc và ông Nguyễn Manh Quang sẽ đứng trong vòng vây con chiên đang dâng trào căm phẫn, phải chào cờ vàng, mặc niệm và buổi “đối thoại” sẽ biến thành cuộc đấu tố những gì hai ông đã viết về chúa của họ. Đó là điều có thể thấy trước.

Kẻ cuồng tín u mê như Chu Tất Tiến và các con chiên cờ vàng khi đọc những bài viết của các ông Trần  Chung Ngọc và Nguyễn mạnh Quang thì chỉ biết lồng lộn nhảy dựng lên mà chửi chứ chẳng biết phải làm gì vì các ông nói đúng quá, dẫn chứng minh bạch đầy đủ quá và dĩ nhiên với  trình độ chỉ đủ để chống cộng cho chúa như Chu Tất Tiến thì chỉ biết ôm hận vào lòng rồi nặn óc  ói ra được một bài thách thức như thế chứ làm sao mà phản biện cho được.

Có rất nhiều công cụ, phương tiện để Chu Tất Tiến viết bài phản biện các bài viết của ông TCN và NMQ nhưng chưa hề thấy bài viết nào của hắn có thể gọi là “phản biện” cả. Nếu loại ra những từ ngữ chửi bới bôi nhọ  lăng mạ cá nhân và những lời ca ngợi chúa của hắn thì những bài gọi là bài “phản biện” của hắn chỉ còn tờ giấy trắng.

Thế giới phẳng ngày nay người  ta rất dễ dàng kiểm chứng được ông Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang là ai, đã viết những gì và có gì sai chỉ bằng một cú click chuột . Một con chiên u mê như Chu Tất Tiến khi thấy có ai chọc vào cái đức tin của hắn thì hắn chỉ biết la lối kiểu như hắn viết ngay trong đầu bài : “Nhóm chống Công giáo (Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang, Trần Quang Diệu, Trần Tiên Long, Hòa Bình…) thực sự là bọn lưu manh, ác ôn, muốn chia rẽ tôn giáo, chứ không phải là những nhà nghiên cứu.”

Chu Tất Tiến  không thể dẫn chứng điều gì cho những lời lẽ tố khổ đó. Một là Chu Tất Tiến cho rằng độc giả sẽ tin ngay những gì hắn nói một cách mù quáng giống y như hắn tin vào thiên chúa, “phúc cho những ai không thấy mà tin”.  Hai là hắn quá coi thường độc giả , Ba là hắn quá ngu nếu nghĩ rằng độc giả sẽ bị hắn thuyết phục chỉ đơn giản bằng những lời lẽ mạt sát mất dạy.

Nếu Chu Tất Tiến có đủ trình độ và lý lẽ hắn hãy phản biện những bài viết của các ông TCN và NMQ ngay trên các website ca tô của hắn, trên blog cá nhân, chẳng việc gì phải bày trò thách chức “đối thoại” . Tôi đoan chắc rằng Chu Tất Tiến không thể có khả năng đó. Chỉ cần một đứa trẻ con trích vài dòng trong thánh kinh để “đối thoại” đủ làm cho Chu Tất Tiến ú ớ rồi.

Những đề tài Chu Tất Tiến đưa ra để thách thức đối thoại thì buồn thay cho hắn, nó đúng y như thế nếu chúng ta chịu khó ngồi đọc hàng  ngàn trang tài liệu viết về nó trên internet. Nếu click vào từ khóa Trần Chung Ngọc hay Nguyễn Mạnh Quang, độc giả sẽ thấy ngay những bài viết của hai ông và được dẫn đến những tài liệu của cả thế giới  nói về chúa của hắn ra sao và tự thân những tài liệu này đã trả lời cho Chu Tất Tiến những điều hắn muốn “đối thoại”.

Trong một bài được gọi là “ thư ngỏ gửi tiến sĩ Trần Chung Ngọc” Chu Tất Tiến  viết : “Thà đối diện với Cộng Sản, chứ không trao đổi ý kiến với những tay sai” hàm ý nói ông Trần Chung Ngọc là “tay sai cộng sản” . Việc chụp mũ này quá quen thuộc đối với dân cờ vàng khi bị bế tắc về lý luận, hạn hẹp về tri thức, chụp mũ là con đường thoát thân duy nhất.

Bày trò “đối thoại” để chứng tỏ  ta có chút đỉnh vốn tri thức nhưng biết chắc chẳng ai thèm nhận lời là một thủ đoạn kiểu giang hồ chẳng mới mẻ gì. Chu Tất Tiến hẳn đang hả hê tưởng rằng hắn đã ghi điểm gỡ gạc được với mọi người. Nhưng hắn chỉ đánh lừa con chiên mà thôi.

Hai ông Trần Chung Ngọc và Nguyễn Mạnh Quang đã từng lôi cái đức tin mù của các con chiên như Chu Tất Tiến ra để mổ xẻ và mổ luôn cả kinh thánh, mổ luôn cả thiên chúa  mà hắn đang mù quáng tin vào. Trong thời VNCH điều này là không hề xảy ra và không thể xảy ra. Cho nên Chu Tất Tiến thực sự bị sốc nặng bởi những bài viết của hai ông. Thay vì suy gẫm và ứng xử như  một con người, Chu Tất Tiến suy gẫm và ứng xử như một con chiên mù cho nên chuyện hắn cay cú hai ông là điều tất yếu.

Chu Tất Tiến có đau lòng xót dạ vì bị hai ông TCN và NMQ chọt vào cái nỗi đau cờ vàng, chọt vào cái đức tin mù của hắn  thì  chỉ còn cách duy nhất là hãy cố cầu nguyện cho thiên chúa toàn năng của hắn  trừng trị họ đi,  chứ khả năng của hắn  không thể nào phản biện được những ông này đâu. Đó là điều chắc chắn. Nếu yêu cầu Chu Tất Tiến ngồi  xuống để “phản biện” hai ông TCN và NMQ mà không được phép chửi, không được phép mạt sát chụp mũ thì Chu Tất Tiến chỉ “phản biện” được một chữ:  Amen.

From → Bình Luận

32 bình luận
  1. Giết Việt Cộng permalink

    Phê bình bài viết “Ý nghĩa và vai trò trí thức trong Phật Giáo” của tác giả Trần Chung Ngọc

    Tiến sĩ Dương Ngọc Dũng

    1. Mục tiêu bài viết này là phê phán tác giả Trần Chung Ngọc (tiến sĩ Wisconsin) thông qua việc khảo sát hai bài viết chính : bài “Ý Nghĩa và Vai Trò Trí Thức Trong Phật Giáo” đăng trong tạp chí Giao Điểm (số 23 tháng 3 năm 1996) và bài “Quan Niệm Giải Thoát trong Phật Giáo và Gia Tô Giáo” đăng trong Giao Điểm (số 23 tháng 6 năm 1996).

    Trong bài thứ nhất, tác giả chẳng làm gì khác hơn là đem học giả Như Hạnh ra chê bai, dè bĩu một cách hết sức vô lý, chỉ cho thấy động cơ tâm lý chính của các tác giả nhóm Giao Điểm là ganh ghét, hằn học, đố kị với những người thực sự nghiên cứu Phật Giáo một cách nghiêm túc. Trong bài thứ hai Trần Chung Ngọc bắt tay vào công việc đối chiếu hai hệ thống tôn giáo lớn, Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, trong khi không có gì cho thấy tác giả họ Trần đã được học hành huấn luyện trong lãnh vực tôn giáo đối chiếu (comparative religion) hay có kiến thức vững chắc về hai tôn giáo này.

    Giống như tất cả các cây bút tự nhận là trí thức Phật Giáo như Lê Hiếu Liêm, Trần Văn Kha, Minh Chi, Nguyễn Phúc Bửu Tập, Trần Chung Ngọc có những hiểu biết hết sức nông cạn và hời hợt về tư tưởng Phật Giáo, điều mà họ hăng say bảo vệ một cách ngu xuẩn bằng cách mạ lỵ chửi bới những người có đầy đủ khả năng để bàn đến vấn đề học thuật Phật Giáo. Tôi không viết bài này để trao đổi học thuật với Trần Chung Ngọc vì chính tác giả tự nhận mình là một “Phật tử thấp kém” (Giao điểm 23, QNGTTPGVGTG : 28) – hay với bất cứ cây viết nào trong nhóm Giao Điểm. Tôi muốn tìm hiểu và lật mặt nạ các động cơ tâm lý khiến những kẻ dốt nát, bất tài lại thích đề cập đến những vấn đề tư tưởng, triết học đao to búa lớn.

    Không hiểu tại sao văn hóa Việt Nam lại có thể dung chứa một đại bộ phận bất hảo, học vấn lai căng chẳng ra gì lại thích viết báo, viết sách nói về những điều mình chưa hề được học hỏi bao giờ, chẳng hạn Nguyễn Hữu Liêm, một người tự cho mình là triết gia, lập thuyết triết học trong khi hoàn toàn dốt nát về triết học Tây Phương (tôi sẽ phê bình Nguyễn Hữu Liêm và nhóm Triết trong cuốn sách kế tiếp) hay Cao Xuân Hạo, một nhà ngữ học, lại đi viết về triết học Lão Trang một cách thiển cận với mục đích khoe khoang về cha mình là Cao Xuân Huy là người thông kim bác cổ trong khi Cao Xuân Hạo hoàn toàn chẳng có kiến thức gì về triết học Trung quốc (xem bài “Quan Niệm Chu Toàn Trong Triết Học Lão Trang và Trong Cấu Trúc Luận Phương Tây” của Cao Xuân Hạo đăng trong tạp chí Triết số 2 tháng 6, 1996. Tôi sẽ phê bình tác giả Cao Xuân Hạo trong cuốn sách kế tiếp).

    2. Trần Chung Ngọc hoàn toàn có một thái độ kiêu căng tự mãn khi nhận định về khả năng tri thức và tư cách đạo đức của chính mình như trong câu trích dẫn sau đây cho thấy :

    Viết bài này một Phật tử thấp kém như tôi cũng chỉ có một tâm nguyện : giúp cho người đời tự mình bước đi những bước chân vững vàng, an lạc trên mặt đất. Hay nói khác đi, theo Kinh Hoa Nghiêm nếu ai lạc đường thì tôi vì họ mà chỉ ra con đường chánh, nơi đêm tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng và tôi cũng xin thêm : nếu ai lầm lạc mà rời xa dân tộc thì tôi vì họ mà hướng dẫn họ trở lại với quốc gia dân tộc (Giao Điểm 23 : bđd : 28).

    Chỉ trong một câu viết này Trần Chung Ngọc bộc lộ thái độ thối tha nhất của một trí thức là khiêm tốn giả tạo : nếu tự cho là một Phật tử thấp kém sao dám cả gan cầm bút viết về những đề tài mình không hề có chút hiểu biết nào ? Nhưng ngay câu sau thì lại lập tức tự đề cao mình lên ngang hàng với chính Đức Phật, làm “ngọn đuốc sáng” soi đường, “chỉ ra con đường chánh”. Trong văn hiến Phật Giáo nói chung chỉ có Đức Phật là người duy nhất được tôn xưng như vậy và bản thân Đức Phật khi nhận định về giáo lý của chính Ngài cũng chỉ so sánh nó với ngón tay chỉ mặt trăng. Còn Trần Chung Ngọc lại huênh hoang khoác lác hơn, tự cho mình là người dẫn đường cho kẻ khác, một cách gián tiếp tự cho mình đã đắc đạo thành Phật hay đã giác ngộ.

    Nhưng nếu đã đắc đạo hay giác ngộ sao lại phải kính phục Lê Hiếu Liêm và trích dẫn tác giả này khi bàn về Phật Giáo – trong khi bản thân tác giả họ Lê còn dốt nát trầm trọng hơn tất cả các tác giả trong nhóm Giao Điểm về Phật Học (tôi sẽ phê bình Lý Khôi Việt, bút hiệu của Lê Hiếu Liêm trong bài sau) – và về tôn giáo nói chung ? Và nếu đã đắc đạo thành Phật sao còn ganh ghét với mảnh bằng tiến sĩ Phật Học của Như Hạnh làm gì ?

    Nhưng Trần Chung Ngọc cũng không thực sự hài lòng với việc giác ngộ hay thành Phật: “Ngài” còn có mục tiêu muốn lãnh đạo cả dân tộc Việt Nam nên đệm thêm vào câu trên một mớ sáo ngữ ái quốc rởm đời : “thì tôi vì họ mà hướng dẫn họ trở lại với quốc gia dân tộc”. Xin hỏi Trần Chung Ngọc : quốc gia mà ngài muốn nói đến là quốc gia nào trong khi ngài đang sống phè phỡn trên đất Mỹ nhận tiền xã hội của Mỹ? Hay ngài muốn cho rằng cộng đồng người Việt tại Mỹ là một quốc gia ? Còn dân tộc mà Trần Chung Ngọc muốn hướng dẫn là dân tộc nào : Việt Nam, Mỹ, hay toàn thế giới ? Nếu tác giả chỉ muốn hướng dẫn dân tộc Việt Nam thôi thì rõ ràng không phải là người Phật tử vì người theo đạo Phật, về nguyên tắc, không phân biệt quốc gia hay dân tộc trong việc giảng dạy giáo lý. Còn nếu Trần Chung Ngọc muốn hướng dẫn cả thế giới theo về con đường chánh (dĩ nhiên con đường chánh mà tác giả hiểu đây là Phật Giáo) thì chắc chắn phải xóa bỏ các tôn giáo lớn khác trên hoàn cầu (Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo v.v…) và yêu cầu họ quy y theo đạo Phật. Nhưng bằng cách nào ?

    3. Chúng ta sẽ đi lại từ đầu với bài viết. “Ý Nghĩa và Vai Trò Trí Thức Trong Phật Giáo”. Trần Chung Ngọc tự ý định nghĩa người trí thức như sau :

    Theo tôi hiểu thì trí thức trong Phật Giáo không phải là người có bằng cử nhân, lại càng không phải những người có bằng cấp cao hơn như Master hay Ph.D mà là những người có chánh kiến, chánh tư duy, và làm việc theo lời nói, nói theo việc làm, tất cả đều chân thật, không hư dối, hiểu đạo, sống với đạo và luôn luôn hành động để mang phúc lợi đến cho toàn thể chúng sanh (Giao Điểm 22 : bđd : 18) .

    Căn cứ vào đâu Trần Chung Ngọc có thể loại trừ tất cả những người có bằng cấp ra khỏi định nghĩa về “trí thức Phật Giáo” ? Như vậy chính bản thân Trần Chung Ngọc, người tự khoe là có bằng Ph.D tại Wisconsin, cũng không thể tự nhận là “trí thức Phật Giáo” căn cứ trên định nghĩa này. Và thế nào là chánh kiến, chánh tư duy theo Phật Giáo ? Mục đích chính của Trần Chung Ngọc khi viết bài này là phê bình và loại bỏ Như Hạnh, người có bằng Ph.D tại Harvard về Phật Học, ra khỏi cái mà Trần Chung Ngọc gọi là giới “trí thức Phật Giáo”. Nhưng khách quan mà xét lại, tại sao Như Hạnh, người nghiên cứu chuyên môn về Phật Học, lại không thể “chánh kiến, chánh tư duy” mà Trần Chung Ngọc lại có thể làm được điều đó ? Tại sao một người cặm cụi bỏ cả đời mình ra học hỏi, nghiên cứu, và giảng dạy về Phật giáo như học giả Như Hạnh lại không được xem là trí thức Phật Giáo ? Thế thì ai có đủ tư cách để tự nhận là trí thức Phật Giáo ? Có bằng chứng đâu để cho thấy Trần Chung Ngọc “sống với Đạo”, “hiểu Đạo”, “hành động để mang phúc lợi đến cho toàn thể chúng sanh” hơn Như Hạnh ? Viết bài mạ lỵ hay xuyên tạc người khác do lòng đố kỵ có phải là một hành động “đem lại phúc lợi” cho “chúng sanh” Như Hạnh không ? Có lý do triết học nào để loại bỏ Như Hạnh ra khỏi phạm trù “chúng sanh” của Trần Chung Ngọc ?

    Không có bằng chứng nào trong bài viết cho thấy Trần Chung Ngọc là người “hiểu Đạo” mà có rất nhiều bằng chứng cho thấy ngược lại. Tác giả viết một cách láo lếu như sau :

    Có nhiều giáo sư rất giỏi Phật học nhưng chưa bao giờ thực hành Phật Pháp. Tỳ kheo Sangharakshita đã xếp những người này thuộc loại “Khẩu thiền” và tôi muốn đọc sách Phật giáo thì tôi có thể đọc thẳng vào kinh điển Phật giáo hay đọc những tác phẩm của các bậc tu hành đạo cao đức trọng trong đó có những kinh nghiệm tu chứng, chứ tôi không đọc sách của các học giả luận về tu chứng (Giao Điểm 22:bđd:19)

    Trần Chung Ngọc đã lầm lẫn giữa hai sự việc trong lý luận : giáo sư Phật học chỉ là người nghiên cứu và giảng dạy về Phật giáo, ông ta không phải là tu sĩ đi tìm sự giác ngộ hay có ý muốn thành Phật nên trách ông ta “không thực hành Phật Pháp” là vô lý. Nếu Trần Chung Ngọc muốn đi tu thì cứ cạo đầu xin quy y trong một ngôi chùa nào đó, nhưng nếu Trần Chung Ngọc muốn tìm hiểu về Phật giáo thì phải đi học với các giáo sư Phật học chứ không thể làm một việc hết sức vô lý là đứng trên bình diện tu hành để chỉ trích các giáo sư là người lấy sự tu hành và giáo lý kinh điển làm đối tượng nghiên cứu. Nhưng có gì cho thấy Trần Chung Ngọc là người “thực hành Phật Pháp” ? Chẳng cầu dẫn chứng đâu cho xa, ngay trong các trường Phật Học trung cấp, cao cấp tại Việt Nam, các tăng ni vẫn phải học hành, nghiên cứu về giáo lý và không thể lấy việc “thực hành Phật Pháp” ra để thay thế cho việc học hỏi, nghiên cứu giáo lý được. Không hiểu chánh pháp thì căn cứ vào đâu để thực hành ? Theo truyền thống Thượng Tọa Bộ như được đúc kết trong tác phẩm Visuddhimaga (Con Đường Thanh Tịnh) của Buddhaghosa (Phật Âm), một triết gia Phật Giáo Ấn Độ thế kỷ thứ 5, thì trong ba giai đoạn tu tập giáo lý Phật giáo (giới, định, tuệ) thì Tuệ (panna) là đỉnh cao cuối cùng của sự tu chứng. Không có gì trong kinh tạng Pali cho thấy Đức Phật phản đối việc nghiên cứu hay học hỏi về giáo lý (dhamma) cả. Trong truyền thống tu tập của Phật Giáo Tích Lan (Sri Lanka) thì các tu sĩ được phân ra làm hai loại : loại thứ nhất chuyên chú vào việc nghiên cứu giáo lý (textual scholars) còn loại thứ hai chuyên chú vào việc thực hành thiền định trong rừng, và cả hai loại tu sĩ này đều được tôn trọng ngang nhau.

    Sự dốt nát về Phật học của Trần Chung Ngọc thể hiện rõ ràng nhất trong các nhận định của tác giả về Thiền Tông. Trần Chung Ngọc chẳng làm gì khác hơn là lặp lại các sáo ngữ quen thuộc đầy rẫy trong các tác phẩm phổ thông viết về Thiền theo kiểu Nhất Hạnh. Nhất Hạnh cũng chẳng làm gì khác hơn là cóp chép lại sách vở của D.T.Suzuki. Suzuki là một thiền sư dòng Lâm Tế (Rinzai) và tác phẩm Essays in Zen Buddhism (Thiền Luận) của ông nhằm trình bày Thiền theo kinh nghiệm nội chứng của một thiền sư dòng Lâm Tế, không phải một tác phẩm viết về thiền sử cung cấp những sự kiện để có thể trích dẫn một cách tùy tiện. Hơn nữa, dòng Lâm Tế chỉ là một trong hai dòng thiền chính tại Nhật Bản, dòng kia là dòng Thiền Tào Động (Soto) với hơn 15 ngàn tu viện trên khắp nước Nhật trong khi dòng Lâm Tế chỉ có hơn 6 ngàn tu viện. Ngày nay những nhà nghiên cứu lịch sử Thiền Tông Nhật Bản bắt đầu nhận ra rằng nếu chỉ nhìn Thiền qua lăng kính của dòng Lâm Tế (mà đại diện tiêu biểu là Suzuki) chúng ta sẽ có một hiểu biết méo mó và phiến diện về Thiền nói chung. Gần đây đã có các công trình chính nghiên cứu về Đạo Nguyên (Dogen), người sáng lập dòng Thiền Tào Động tại Nhật Bản vào thế kỷ 13. Điển hình là ba tác phẩm viết về Đạo Nguyên của giáo sư Steven Heine : Existentialism and Ontological Dimensions of Time in Heidegger and Dogen (1985), A Blade of Grass, Japanese Poetry and Aesthetics in Dogen Zen (1989), và Dogen and the Koan Tradition (1994 ). Những nhà nghiên cứu Thiền sử như John McRae, Bernard Faure, Griffoulk, Yampolsky, Nagashima, đã vạch ra rất nhiều vấn đề ngụy tạo trong lịch sử Thiền Tông tại Trung Hoa, Trần Chung Ngọc chỉ cần ra nhà sách tìm mua về nhà đọc sẽ bớt nói bậy bạ về Thiền theo kiểu Nhất Hạnh. Chẳng hạn tác giả họ Trần viết :

    Tôn chỉ của Thiền Tông là giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật”. Vậy có cái gì là mê hoặc văn chương ở đây ? (Giao Điểm số 22 : bđd : 27)

    Như Hạnh không phê bình toàn bộ lịch sử Thiền hay bản chất của Thiền là một “mê hoặc văn chương” – đây là sự gán ghép mang dụng ý xuyên tạc bẩn thỉu của Trần Chung Ngọc. Như Hạnh chỉ giới hạn nhận xét của anh vào việc làm thơ thiền trong giới Phật giáo đời Lý. Nguyên văn Như Hạnh viết : “Đáng tiếc là kể từ giữa đời Lý trở đi, giới lãnh đạo Phật giáo Việt Nam bị lôi cuốn bởi phong trào “tổ sư Thiền” của Trung Hoa. Tôi cho rằng đây là một mê hoặc văn chương hơn là một phát triển tôn giáo” (trích theo chính Trần Chung Ngọc trong bài báo nói trên). Như vậy câu phản bác của Trần Chung Ngọc là chẳng ăn nhập gì đến nội dung nhận xét về Phật Giáo đời Lý của Như Hạnh. Hơn nữa, sáo ngữ “bất lập văn tự” thường được lập đi lập lại trong các sách viết về Thiền nhiều lần đến nỗi không ai tự hỏi ngay bản thân câu “bất lập văn tự” không phải là văn tự thì còn là cái gì ? Có thể phát biểu khái niệm “bất lập văn tự” mà không dùng đến ngôn ngữ được không ? Công án không dùng đến ngôn ngữ sao ? Cơ duyên vấn đáp (kien mondo) không phải là ngôn ngữ ? Ngữ lục (goroku) không dùng đến ngôn ngữ để chép lại lời nói của các thiền sư thì dùng phương tiện nào khác ? Dale Wright đã nhận xét về câu nói “bất lập văn tự” (I’uryu monji) là bản thân câu phát biểu này cũng phải được kiến lập bằng phương tiện ngôn ngữ (linguistically constituted) và ông cho rằng câu này không hướng đến việc siêu vượt ra khỏi ngôn ngữ (far from being a transcendence of language), mà đúng ra tiến trình kiến lập kinh nghiệm Thiền đòi hỏi một sự tái định hướng trong chính bản thân ngôn ngữ (a reorientation within language) (1).

    Trong toàn thể bài viết phê bình tác giả Như Hạnh, Trần Chung Ngọc cũng chỉ căn cứ vào những sáo ngữ chung chung như thế với đầy ác ý xuyên tạc nội dung bài viết của Như Hạnh trong khi bản thân Trần Chung Ngọc cũng chẳng biết gì về Thiền hay Phật giáo nói chung. Chẳng hạn tác giả họ Trần viết :
    Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ nhưng hiểu rằng tâm động chứ không phải là phướng động (Giao Điểm 22, bđd : tr.28)
    Tôi không hiểu sao đến bây giờ vẫn có người có trình độ tiến sĩ như Trần Chung Ngọc lại đi tin vào cái huyền thoại hạng bét rằng “tổ thứ sáu của dòng Thiền Nam Tông, Huệ Năng, là người không biết chữ”. Đó là cái khổ của những anh chàng tự học mà cứ tưởng mình thông thái. Chỉ cần có theo dõi nghiên cứu về Thiền cũng biết rằng theo Takayuki Nagashima, “nhân vật Huệ Năng là một sản phẩm bịa đặt hoàn toàn” (2). Rất có thể Thần Hội, người đối lập với Thần Tú, và đặt ra sự khác biệt giữa dòng thiền Nam Tông và Bắc Tông bằng cách xuyên tạc giáo lý của Thần Tú và dòng Thiền Bắc Tông, là tác giả của sự bịa đặt này. Steven Heine nhận xét như sau về nhân vật Huệ Năng : “Tính chất lịch sử của Lục Tổ (Huệ Năng) đã bị nghi ngờ đến mức rất có thể tiểu sử của ông là một sáng tạo của Thần Hội, người muốn duy trì sự tranh chấp bộ phái giữa dòng Thiền Nam Tông đang lên và dòng Thiền Bắc Tông bị trình bày một cách sai lầm” (The historicity of the Sixth Patriarch is now questioned to the point thai his life-story may indeed be a fictive device invented by Shenhui, who was interested in perpetrating a sectarian debate between the dominant Southern school and the mispresented Northern school) (3) . Các nhà nghiên cứu về Thiền đã chứng minh rằng hầu hết lịch sử Thiền đời nhà Đường, các tiểu sử hay ngữ lục gán cho các thiền sư đời nhà Đường thật ra được biên soạn vào đầu đời Tống hay ít nhất cũng được xào nấu tái chế lại bởi các tác giả đời Tống.
    Philip Yampolsky, người dịch Pháp Bảo Đàn Kinh của Huệ Năng sang tiếng Anh, nhận xét về tính chất lịch sử trong các “truyền đăng lục” của Thiền Tông như sau : “Trong việc sáng chế ra lịch sử (Thiền), sự chính xác không phải là chuyện cần quan tâm… Một vài sự kiện được biết có thể được dựng thành một câu chuyện hấp dẫn, nhưng đó là một câu chuyện đầy rẫy các điểm đáng nghi ngờ, các lỗ hổng, và những sự kiện mâu thuẫn… và hầu như chắc chắn là không có thật (In the manufacture of this history, accuracy is not a consideration… The few facts that are known can, perhaps, be molded into a nice story, but is surrounded by doubts, lacunae, and inconsistencies… and almost untrue) (4). Các chuyên gia nghiên cứu về Thiền còn tự hỏi không biết nhân vật Huệ Năng có thật là một nhân vật lịch sử hay không, còn Trần Chung Ngọc là ai, căn cứ vào tư liệu nào, tác giả nào, mà có thể tự nhiên đưa ra những nhận định, phán đoán khơi khơi như thể câu nói “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” là một chân lý toán học dùng để “sửa lưng” học giả Như Hạnh là nói không đúng với trình độ “kiến thức” tiểu học về Thiền của họ Trần.

    4. Điều ngu xuẩn nhất của Trần Chung Ngọc là hiểu lầm rằng mình có thể đọc thẳng vào kinh điển Phật giáo. Nên hiểu chữ đọc thẳng này theo nghĩa nào ? Trần Chung Ngọc có khả năng đọc thẳng vào nguyên tác Pali hay Sanskrit ? Nếu hiểu “đọc thẳng” ở đây là đọc các bản dịch tiếng Việt của Đoàn Trung Còn, Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu, thì Trần Chung Ngọc không có tư cách hay thẩm quyền gì để bàn chuyện Phật học cả. Không thể bàn đến kịch Shakespeare nếu không thông thạo tiếng Anh thế kỷ 10, cũng như không thể làm thơ Đường nếu không biết chữ Hán.
    Không thể đọc vở kịch Hamlet qua bản dịch của Đỗ Khánh Hoan và tuyên bố đã “đọc thẳng” vào Shakespeare. Kinh điển Việt Nam được dịch ra cho mục đích tụng đọc, phục vụ cho việc thực hành tu tập hơn là việc nghiên cứu nên rất khó dùng vào việc nghiên cứu Phật giáo về khía cạnh giáo lý. Đó là chưa nhắc đến việc dịch sai vì chưa học giả nào tại Việt Nam từ trước đến nay được đào tạo về các cổ ngữ Phật giáo một cách thấu đáo để tiến hành công việc rà soát lại các bản dịch hiện hành. Học Phật một cách nghiêm túc khó hơn cả học toán cao cấp vì học toán không đòi hỏi phải học các cổ ngữ khó khăn như Pali, Sanskrit, Tây Tạng, Hán cổ, Mông Cổ, Mãn Châu, v.v… Chúng ta, những người không hề được đào tạo trong ngành vật lý, có thể ra tiệm mua một cuốn sách của Einstein và “đọc thẳng” vào thuyết tương đối và hiểu nó như một nhà vật lý học thực thụ hiểu được không ? Dứt khoát là tác giả họ Trần không thể “đọc thẳng” vào kinh điển Phật giáo được nếu không cắp sách đến trường học các cổ ngữ Phật giáo liên hệ, ít nhất là Tứ Đại Kim Cương của ngành Phật học : Pali, Sanskrit, Tây Tạng, Hán cổ.

    5. Luận điểm thứ hai của Trần Chung Ngọc cũng cần phải phê bình đó là việc tuyên bố rằng có thể hiểu Phật giáo qua việc đọc “các tác phẩm của các bậc tu hành đạo cao đức trọng trong đó có những kinh nghiệm tu chứng” (câu trích dẫn ở trên). Đây cũng là một lầm lẫn tai hại. Đọc vào các kinh nghiệm tu chứng thì Trần Chung Ngọc vẫn đứng bên ngoài kinh nghiệm tu chứng, vẫn chưa phải là thực sự có kinh nghiệm đó. Đọc thẳng Lâm Tế Lục, Bích Nham Lục, Shobogenzo (Chánh Pháp Nhãn Tạng) cũng không có nghĩa là chúng ta có thể trực tiếp nắm được kinh nghiệm giác ngộ như Lâm Tế hay Đạo Nguyên (Dogen). Và cũng không có gì xác chứng rằng các kinh nghiệm tu chứng đó là kinh nghiệm Phật giáo hay là một cảm giác nào khác mà các “bậc tu hành đạo cao đức trọng” đó hiểu lầm ra như vậy. Tôi xin lấy ví dụ : một người tuyên bố mình là Napoléon chúng ta cho là điên, tại sao chúng ta lại kính trọng một người tuyên bố mình là Phật, đã giác ngộ, hay liễu Đạo ?
    Bằng cách nào chúng ta có thể trực tiếp đi vào trong nội thân kinh nghiệm của người đó để có thể quả quyết đây là một kinh nghiệm tôn giáo hay đây là triệu chứng của bệnh loạn thần kinh ? Để trả lời các vấn nạn này Trần Chung Ngọc cũng phải xách cặp đi học để nghe các giáo sư giảng cho cách phân biệt, không thể ngồi nhà “tự học” và nghe các lời tuyên bố bá láp của các thiền sư dỏm như Tuyên Hóa hay Nhất Hạnh rồi hiểu lầm mình đã “kiến tánh thành Phật”.
    6. Sự hằn học vô lý của Trần Chung Ngọc đối với mảnh bằng tiến sĩ của Như Hạnh càng lúc càng tăng khi tác giả họ Trần viết :
    Còn cái bằng cấp mà tôi lấy được ở đại học, với những phương pháp khảo cứu tiến bộ nhất, với đầy đủ tư liệu nhất, thì nhiều lắm là giúp tôi kiếm được một công ăn việc làm để tôi có một đời sống vật chất thoải mái, nghĩa là giúp tôi kiếm ăn bằng “hí luận” nếu bằng cấp của tôi là về Phật Giáo (Giao Điểm 22 : bđd : 19).
    Tôi không thể tin một người cũng tự xưng là có bằng Tiến Sĩ như Trần Chung Ngọc lại có thể viết một câu ngu xuẩn như vậy. Nhưng khi chúng ta hiểu động cơ tâm lý chính của Trần Chung Ngọc là ghen ghét và đố kỵ với mảnh bằng tiến sĩ của Như Hạnh thì sự ngu xuẩn này cũng có thể giải thích được.
    Điểm thứ nhất : nghề giảng dạy, dù là ở ngay đại học Mỹ, chưa bao giờ được xem là một nghề đem lại “đời sống vật chất thoải mái” như các nghề bác sĩ hay luật sư. Nhưng đó là một chi tiết nhỏ.
    Điểm ngu xuẩn vô lý của Trần Chung Ngọc là : tại sao đi học, biết những phương pháp khảo cứu tiến bộ nhất, có đầy đủ tư liệu để bàn về những vấn đề mình muốn bàn, lại là một điều đáng chê trách, đáng khinh bỉ ? Đây không phải là sự thể hiện thái độ “phản trí thức” (anti-intellectual) mà Như Hạnh đã phê bình sao ? Lối lập luận của Trần Chung Ngọc cho chúng ta cái cảm giác là chính những người bỏ cả đời để học hỏi về Phật Giáo là những người đáng khinh bỉ, còn những người chép sách, đạo văn, ăn nói láo lếu như Lê Hiếu Liêm lại được tôn trọng, vinh danh là “trí thức Phật giáo”.
    Điểm thứ hai : Trần Chung Ngọc có thực sự hiểu chữ “hí luận” có nghĩa là gì hay không ? Do “đọc thẳng” vào kinh điển Phật giáo “thông qua bản dịch tiếng Việt” nên Trần Chung Ngọc hiểu lầm “hí luận” có nghĩa là “nói suông, không có thực hành Phật Pháp”. Rất nhiều người hiểu lầm như vậy do cũng “tự học về Phật Giáo” theo phương pháp của nhóm Giao Điểm. Tôi có thể giải thích danh từ đó ở đây nhưng tôi không muốn ban một đặc ân lớn lao như vậy cho Trần Chung Ngọc. Tôi chỉ nhắc một cách tóm tắt : hí luận là danh từ Hán Việt dịch từ tiếng Phạn là prapanca. Trần Chung Ngọc hãy lấy từ điển Sanskrit-English của Monier Williams và tra mục từ prapanca để biết rõ tận gốc ý nghĩa của thuật ngữ này (nếu Trần Chung Ngọc biết cách tra tự điển Sanskrit). Điều tôi muốn nhấn mạnh : hãy thực sự đi học về Phật giáo tại một trường đại học rồi sau đó hãy phát biểu về Phật giáo, nếu không ngay cả những thuật ngữ bình thường nhất trong Phật giáo anh vẫn hiểu lầm một cách tai hại.
    7. Trần Chung Ngọc khi tiến hành phê phán Như Hạnh về bài viết “Tỳ Sa Môn” đã viết như sau :
    Như Hạnh nghiên cứu về sự biến dạng của Tỳ Sa Môn Thiên Vương bên Ấn Độ thành Phù Đồng Thiên Vương ở Việt Nam. Đây là một bài khảo cứu thuộc phạm vi chuyên môn của Như Hạnh, mà tôi thì không phải là một học giả nghiên cứu về đề tài này, nên tôi không đủ khả năng để luận bàn về nội dung bài viết của Như Hạnh. Tuy nhiên trong phần kết luận và trong phần chú thích, Như Hạnh đã đưa ra vài nhận định về Thiền Tông Việt Nam mà tôi cho rằng chưa tiêu hóa được cái học khoa cử, cho nên tôi xin được góp ý kiến về những nhận định này (Giao Điểm 22, bđd : 27).
    Chúng ta hãy chậm rãi đọc lại câu nói tương đối ôn hòa nhất và đúng đắn nhất của Trần Chung Ngọc trong toàn thể bài viết để nhận ra ba ý chính như sau :
    1. Tác giả thừa nhận Như Hạnh là nhà nghiên cứu chuyên môn.
    2. Vậy Trần Chung Ngọc thừa nhận mình không phải là nhà chuyên môn về Phật giáo sao ? Khoan đã. Trần Chung Ngọc chỉ thừa nhận Như Hạnh là chuyên gia về Tỳ Sa Môn thôi còn không phải là chuyên gia về Thiền Tông Việt Nam. Người chuyên môn đó chính là Trần Chung Ngọc. Cho nên “chuyên gia” Trần Chung Ngọc sẽ phê phán các “sai lầm” của Như Hạnh khi bàn về Thiền Tông Việt Nam.
    3. Tuy thừa nhận Như Hạnh là nhà chuyên môn trong lãnh vực của mình, Trần Chung Ngọc vẫn cho rằng Như Hạnh “chưa tiêu hóa được cái học khoa cử”. Vậy ai có khả năng “tiêu hóa” này ? Chính là Trần Chung Ngọc, tuy có bằng tiến sĩ tại Wisconsin, nhưng đã “tiêu hóa” được Thiền Tông Việt Nam nên tự cho mình có đủ thẩm quyền để phê bình những người “chưa tiêu hóa được cái học khoa cử”. Nhưng vấn đề là Trần Chung Ngọc có phải thực sự “tiêu hóa” được hay không thì không có căn cứ hay bằng chứng gì để xác nhận cả. Trong khi Như Hạnh có vẻ có đầy đủ bằng chứng hơn để cho thấy anh là người có thực sự đọc và nghiên cứu Thiền Tông : tác giả đã dịch Thiền Đạo Tu Tập của Trương Trừng Cơ, dịch The Zen Training of Monks của D.T.Suzuki, và tác phẩm Như Hạnh sắp xuất bản (Koruda Institute x.b.) là khảo luận về truyền thống Thiền Tông Việt Nam. Tất cả các bài viết của Như Hạnh đa số đều nghiên cứu về lịch sử Thiền Tông Việt Nam. Tôi cho rằng Trần Chung Ngọc nếu tự cho là mình hiểu về Thiền, đặc biệt là Thiền Tông Việt Nam, hơn Như Hạnh để có thể phê phán tác giả này là thể hiện một thái độ hỗn xược của những anh thợ điện đòi phê phán Einstein bằng cách hỏi Einstein có biết sửa cầu chì trong nhà hay không. Trong xã hội Việt Nam vẫn tồn tại những thành phần “hỗn xược văn hóa” như vậy : Nguyễn Bạt Tuy, không hề được đào tạo trong ngành địa chất học, viết bài phê bình tiến sĩ địa chất Trần Kim Thạch. Lê Hiếu Liêm (tức Lý Khôi Việt) không hề đi học sử hay tôn giáo tại đại học, viết bài phê bình, mạ lỵ cả hai tiến sĩ xuất thân Harvard : Như Hạnh và Hồ Đới Huệ Tâm (mà Lý Khôi Việt hiểu lầm là “Hồ Tài Huệ Tâm”). Không được học về ngành tôn giáo học mà đi phê phán Như Hạnh là tiến sĩ chuyên ngành tôn giáo học. Không học về sử lại đi phê phán Hồ Đối Huệ Tâm là giáo sư chuyên sử tại Harvard. Còn bản thân Lê Hiếu Liêm là ai? Đã có công trình nghiên cứu gì về lịch sử tôn giáo ? Bản thân Trần Chung Ngọc là ai, đã có công trình nghiên cứu gì về Thiền Tông để cho thấy anh có đủ khả năng phê phán Như Hạnh trong lãnh vực chuyên môn của tác giả này?

    Chúng ta chỉ cần đọc vài ý kiến của Trần Chung Ngọc về Thiền thì có thể thấy ngay tác giả này chỉ có những kiến thức hết sức hời hợt, sơ đẳng về vấn đề này. Trần Chung Ngọc viết :
    Các thiền sư, có ai dùng văn chương để truyền đạo ? Hay họ chỉ truyền đạo qua những kinh nghiệm tu chứng ? (Giao Điểm 22 : 27).
    Trần Chung Ngọc hiểu “văn chương” đây theo nghĩa nào ? Những bài thơ Thiền đầy rẫy trong văn học Lý Trần không phải là “văn chương” sao ? Vậy thì chúng là cái gì ? Truyền đạo bằng kinh nghiệm tu chứng là như thế nào ? Các vấn đáp (mondo) giữa thiền sư và môn đệ như được ghi lại trong các ngữ lục (goroku) có thể được xem là kinh nghiệm tu chứng ? Tại sao chúng ta cứ nói năng bằng những sáo ngữ mà chẳng bao giờ tốn một chút thời giờ để suy nghĩ ? Làm thế nào để có thể nói đến hay truyền đạt một kinh nghiệm mà không phải trải qua một tiến trình trung gian (mediation) bằng ngôn ngữ hay biểu tượng (symbols) ? Mà kinh nghiệm là gì? Bản chất của nó ra sao ? Ngay cả vấn đề này cũng chưa sáng tỏ. Mà nếu dùng văn chương để giảng về Thiền như Suzuki và nhiều người khác đã làm thì có gì là sai ? Chính nhờ “văn chương” của Suzuki mà nhiều người biết đến Thiền. Hầu như thiền sư Việt Nam nào cũng làm thơ : đây là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa. Sao Trần Chung Ngọc dám khẳng định là các thiền sư không dùng văn chương để truyền đạo ? Sự ngu dốt của Trần Chung Ngọc lên đến cùng cực khi tác giả cho rằng Thiền và Tịnh Độ chẳng có gì khác nhau : “Tịnh Độ khác Thiền ở chỗ nào” (Giao Điểm 22 : 28). Đã vậy tác giả tự khoe là đã đọc Cao Tăng Truyện trong khi không biết một chữ Hán nào. Trần Chung Ngọc viết :
    Đọc Cao Tăng Truyện và thân thế các tổ, tôi chẳng thấy ai có bằng cấp nào cả, nhất là Ph.D (Giao Điểm 22 : 28).
    Cao Tăng Truyện chưa hề được dịch sang tiếng Việt hay tiếng Anh, còn chính bản thân Trần Chung Ngọc tự nhận là không biết tiếng Tàu (Giao Điểm 22:19). Vậy thì Trần Chung Ngọc đọc theo kiểu nào, đọc bằng cách nào ? Đây không phải “hí luận” sao ? Tại sao lại dè bĩu kẻ khác là “chưa tiêu hóa được tinh thần khoa cử” còn mình thì cứ lén lút đưa vào những ngầm ý khoe khoang về trí thức của bản thân ? Đó là chưa kể thái độ mỉa mai một cách vô duyên : “các tổ không ai có bằng Ph.D”. Các tổ đâu phải là nhà nghiên cứu Phật học mà cần đến bằng Ph.D? Mà các “tổ” này là ai ? Là “bạn thân” của Trần Chung Ngọc ? Chúng ta cứ nói đến các “tổ sư” và có thái độ sùng bái họ. Đó có phải là thái độ thực sự của Thiền Tông vốn chủ trương “phùng Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ” ? Tại sao tôi phải sùng bái Huệ Năng nếu tôi thực sự tin rằng tôi là một Huệ Năng thứ hai ? Khi trích dẫn Vĩnh Minh Thiền Sư hay Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Chung Ngọc lại sa vào công việc của các nhà “hí luận”. Tại sao Trần Chung Ngọc không phát biểu từ chính “kinh nghiệm tu chứng” của bản thân ? Tại sao lại phải dựng các mô hình tổ sư lên để chê bai những người nghiên cứu Phật giáo trong khi điều nghịch lý nhất là những người nghiên cứu này am hiểu về các tổ sư Thiền này nhiều hơn chúng ta ? Trần Chung Ngọc có đọc và nghiên cứu Cao Tăng Truyện nhiều hơn Arthur Wright ? Có đọc và nghiên cứu Khuê Phong Tông Mật nhiều hơn Peter Gregory ? Có nghiên cứu Đại Huệ Tông Cảo nhiều hơn Meriam Levering ? Chúng ta cứ nói năng bừa bãi về Phật giáo Lý Trần nhưng ai nghiên cứu về Phật giáo Lý Trần nhiều hơn Như Hạnh ? Tại sao chúng ta lại tin rằng mớ hiểu biết nhỏ nhoi mơ hồ của chúng ta về Phật giáo Lý Trần lại phong phú và chắc chắn hơn của một người bỏ bao nhiêu năm để nghiên cứu về đề tài đó ? Do chẳng học hành nghiên cứu gì về Phật giáo, Trần Chung Ngọc có thể hạ bút viết một câu ngu ngốc :
    “Theo một nghĩa nào đó Phật giáo cũng chẳng phải là một tôn giáo và con đường duy nhất để đi vào Phật giáo là đi vào những kinh nghiệm bản thân”. (Giao Điểm 22 : 29).
    Phật Giáo, nếu không phải là một tôn giáo, thì là cái gì ? Một hệ thống triết học ? Nhưng nếu không phải là một tôn giáo thì chúng ta “đi vào” Phật giáo với mục đích gì ? Nếu chỉ căn cứ vào “kinh nghiệm bản thân” để làm tiêu chuẩn đánh giá thì dựa vào đâu để Trần Chung Ngọc biết rằng Như Hạnh không có “kinh nghiệm bản thân” về Phật giáo ? Và nếu chỉ căn cứ vào “kinh nghiệm bản thân” làm sao Trần Chung Ngọc lại biết được các “kinh nghiệm bản thân” của các tổ sư Thiền có ghi lại trong thiền sử hay ngữ lục đúng là các kinh nghiệm giác ngộ ? Khi Huỳnh Phú Sổ tự xưng là Phật Thầy Tây An, dựa vào kinh nghiệm “bản thân” nào để phán đoán về tính chân thực (authenticity) của lời tuyên bố đó ? Khi Như Hạnh nhận xét rằng các bài thơ Thiền đời Trần có “nội dung rất là luộm thuộm” là căn cứ vào “kinh nghiệm bản thân” đọc thơ Thiền của anh, căn cứ vào sự thực khách quan nào để Trần Chung Ngọc bác bỏ lời nhận xét này ? Khi chúng ta nghe một nhà khí tượng học thông báo ngày mai có bão, chúng ta có nói “căn cứ trên kinh nghiệm bản thân, tôi cho rằng lời thông báo của nhà khí tượng học này chỉ là hí luận láo lếu không thể tin được” ?
    Trần Chung Ngọc tranh cãi với Như Hạnh về Thiền Tông như thể các tổ sư Thiền trong thiền sử hay Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Thái Tông là người thân quen biết của Trần Chung Ngọc và đã tâm sự riêng với tác giả về các “kinh nghiệm bản thân” của họ. Khi Lê Hiếu Liêm (Lý Khôi Việt) tranh cãi về sử học với giáo sư Hồ Đới Huệ Tâm, tác giả họ Lê cũng phạm lầm lỗi ngây thơ này khi tin rằng có tồn tại những sự thật lịch sử khách quan có thể sờ mó được, trong khi chỉ cần một chút suy nghĩ chúng ta cũng có thể thấy ngay cái mà chúng ta tưởng là các sự thật khách quan về lịch sử chính là những văn bản (texts) và người giải thích các văn bản này là sử gia. Giáo sư Huệ Tâm được huấn luyện để làm công việc giải thích đó và Lê Hiếu Liêm cũng không phải là chính bản thân giáo chủ Huỳnh Phú Sổ để có thể bài bác sự giải thích của một sử gia. Chỉ có những sử gia khác, đọc và giải thích văn bản một cách khác, mới có thể tranh luận với giáo sư Huệ Tâm về cách đọc và giải thích tài liệu lịch sử của bà, cũng như chỉ có những sử gia tôn giáo (historians of religion) khác mới có thể tranh biện với Như Hạnh về cách đọc và giải thích Phật Giáo Lý Trần của anh.
    Nếu chỉ căn cứ vào “kinh nghiệm bản thân” như Trần Chung Ngọc viết khi nhận định về Phật giáo thì bất kỳ một anh bán phở hay đạp xích lô nào cũng có thẩm quyền cao nhất để bàn về Phật giáo và không còn có một căn cứ nào để phân biệt chân giả đúng sai được nữa. Tôi cam đoan rằng ngay những tu sĩ, là người thực hành Phật giáo, cũng không hề đưa ra những nhận định cực đoan như vậy. Trong thiền viện, chùa chiền, việc nghiên cứu kinh điển, giáo lý vẫn tiếp tục diễn ra, và các tăng ni vẫn muốn tốt nghiệp Tiến Sĩ với hạng cao nhất và không hề có thái độ chê bai chuyện bằng cấp hay khoa cử gì cả.
    8. Khi bắt tay vào việc so sánh, đối chiếu hai hệ thống tôn giáo lớn là Phật giáo và Thiên Chúa giáo, Trần Chung Ngọc, cũng giống như Hoàng Hà Thanh mà tôi đã phê phán trong tập sách này, cũng dựa trên một mớ kiến thức hết sức phiến diện về cả hai tôn giáo này và một phương thức lý luận đối chiếu hết sức sai lạc.
    Về mặt phương pháp luận : Trần Chung Ngọc không hề học về Thánh Kinh Học (Biblical Studies), nghĩa là không phải chuyên gia về Cựu Ước hay Tân Ước, cũng không phải chuyên gia về Phật học, cũng không biết gì về tôn giáo đối chiếu (comparative religion). Dựa trên cơ sở nào Trần Chung Ngọc có thể tuyên bố có thể “trình bày khách quan những khác biệt căn bản trong giáo lý giải thoát của Phật giáo và Gia Tô giáo, những mâu thuẫn tự tại trong các giáo lý này”. (Giao Điểm 23 : “Quan Niệm Giải Thoát Trong Phật Giáo và Gia Tô giáo” : 20) ? Dĩ nhiên Trần Chung Ngọc không thể dựa vào “kinh nghiệm bản thân” để trình bày giáo lý giải thoát của Thiên Chúa giáo được vì Trần Chung Ngọc là một “trí thức Phật giáo”. Nếu theo đúng lý thuyết của Trần Chung Ngọc, anh không hề “thực hành Thiên Chúa giáo”, không hề có “kinh nghiệm bản thân” về Thiên Chúa giáo thì anh có tư cách gì để phê phán, chê bai đạo Thiên Chúa ? Khi chỉ trích Thiên Chúa giáo, Trần Chung Ngọc cũng chỉ trích dẫn sách vở của những nhà nghiên cứu tôn giáo mà chính Trần Chung Ngọc kết án là “buôn bán hí luận”. Chẳng hạn khi bênh vực cho Phật giáo, Trần Chung Ngọc cũng không xuất phát từ “kinh nghiệm bản thân” mà lại dựa vào tiến sĩ Kimura Taiken. Cũng đều là tiến sĩ cả, tại sao Như Hạnh lại bị khinh bỉ là “buôn bán hí luận”, còn Kimura Taiken thì không ? Chính do không học hành nghiên cứu gì về Phật giáo, Trần Chung Ngọc cũng chỉ làm một việc duy nhất là trích dẫn Kimura Taiken trong khi không hề biết rằng Kimura Taiken là một chuyên gia về Ấn giáo (Hinduism) hơn là Phật giáo, và ngay trong đoạn văn Trần Chung Ngọc trích dẫn cũng chứa nhiều sai lầm về lý thuyết giải thoát trong Phật giáo.
    Lập trường chủ yếu của giải thoát quan Phật giáo là vượt ra ngoài cõi dục (dục giới) (Giao Điểm 23 : bđd : 27)
    Cả Thích Quảng Độ, người dịch Timura Taiken, và cả Kimura Taiken đều không ý thức rằng đối với giáo lý Đức Phật, mục tiêu cuối cùng là chấm dứt luân hồi, giải thoát ra khỏi vòng quay của bánh xe sinh diệt (samsara), vượt ba cõi (dục giới, sắc giới và vô sắc giới) chứ không phải chỉ vượt qua có Dục Giới, vì dukkha là nguyên lý chi phối cả ba cõi, ngay cả cung Đâu Xuất của Phật Di Lặc (Maitreya) vẫn nằm cõi thấp nhất là Dục Giới (kamadhatu). Điều này được khai triển đầy đủ trong văn hệ A Tỳ Đàm (Abhidhama). Tôi chỉ dùng một điểm nhỏ này để cho thấy ngay cả một thượng tọa Phật giáo như Thích Quảng Độ vẫn có thể hiểu lầm về chi tiết này. Không bao giờ nên có ảo tưởng rằng chúng ta có thể ngồi nhà “tự học” về Phật giáo. Kimura Taiken (theo Trần Chung Ngọc trích dẫn) nói về Niết Bàn một cách dễ dãi như sau :
    Mà Niết Bàn theo nghĩa đen là “dập tắt” nghĩa là dập tắt hết mọi dục vọng tồn tại và lấy đó là lý tưởng cứu cánh (Giao Điểm 23 : bđd : 27).
    Nếu chúng ta nhận đây là định nghĩa duy nhất đúng về Niết Bàn thì làm sao cắt nghĩa được sự mâu thuẫn khi Kimura Taiken viết tiếp : “Cái gọi là giải thoát, là Niết Bàn, nếu không có ích lợi gì đối với cuộc sống thực tế thì tự nó cũng không có ý nghĩa gì cả” (Giao Điểm 23 : bđd : 27). Đã chấm dứt mọi khát vọng tồn tại thì còn quan tâm đến cuộc sống thực tế làm gì nữa ? Vấn đề ích lợi hay không ích lợi đâu còn đặt ra ? Nếu cho rằng giải thoát là “chấm dứt mọi dục vọng tồn tại”, thì vấn đề đạo đức hay từ bi mất hết lý do tồn tại. Phật tử đến chùa thắp nhang hay cúng dường chư Phật vì họ tin vào luật tuần hoàn nhân quả, làm phước gặp phước, làm ác gặp ác, nếu yêu cầu họ “chấm dứt mọi dục vọng tồn tại” thì mọi hành động này còn có ý nghĩa gì nữa ?
    Chính do chẳng có một căn bản học vấn tôn giáo nào Trần Chung Ngọc mới viết một câu ngu xuẩn như sau về Thiên Chúa giáo :
    Trong Gia Tô giáo vì là một tôn giáo cứu rỗi, nên vấn đề đạo đức không đặt ra (Giao Điểm 23 : bđd : 28).
    Khi dùng chữ Gia Tô giáo (Christianity) Trần Chung Ngọc cứ hiểu lầm đây là một thực thể tôn giáo thống nhất trong khi thế giới tôn giáo Thiên Chúa giáo cũng cực kỳ phức tạp. Không hiểu là Trần Chung Ngọc muốn nói đến Công Giáo La Mã (Roman Catholicism) hay Chính Thống giáo (Orthodox Church) hay Tin Lành (Protestantism) vì hệ thống tín lý lẫn thực hành của ba nhánh Thiên Chúa giáo này rất khác nhau, thậm chí xung khắc về nhiều điểm nữa. Nhưng dứt khoát không một tín đồ Thiên Chúa giáo nào có thể chấp nhận lời khẳng định rằng Thiên Chúa giáo không có một nền đạo đức riêng biệt. Tôi chỉ sợ Trần Chung Ngọc bỏ cả cuộc đời còn lại vẫn không sao đọc hết sách vở trong các thư viện Thiên Chúa giáo viết về đề tài “Christian Ethics”.
    Chỉ cần trích dẫn ngẫu nhiên vài ba câu viết về Phật giáo và Thiên Chúa giáo chúng ta cũng đủ thấy trình độ học vấn và nhận thức về tôn giáo học của Trần Chung Ngọc. Tác giả này, cũng như hàng trăm ngàn trí thức Việt Nam khác, không thích thú gì hơn là được xem là uyên bác, thông kim bác cổ, bàn luận chuyện triết học, tư tưởng cao siêu, nhưng chẳng bao giờ bỏ thì giờ đi học cho đàng hoàng về các lãnh vực nói trên. Chính vì thế họ mang một tâm trạng hằn học, đố kỵ với những người có thẩm quyền về các vấn đề mà họ cho là cao siêu, thâm thúy (Phật Học, triết học, tôn giáo, văn học) vì sự hiện diện và tiếng nói của các chuyên gia trong ngành là sự phủ nhận thái độ tài tử hời hợt của các “chuyên gia tự học”. Thay vì tự nhận ra giới hạn của chính bản thân và chịu khó học hỏi từ các chuyên gia trong ngành, những tay tài tử này lại đi hắt bùn vào những người đó để gián tiếp bắn đi một thông điệp : “Tôi còn giỏi hơn cả các chuyên gia trong ngành, nhờ tôi tự học nên không bị vướng bệnh khoa cử”. Lý Khôi Việt (Lê Hiếu Liêm) ngầm ý muốn nói mình còn giỏi hơn cả giáo sư đại học Harvard Hồ Đới Huệ Tâm. Trần Chung Ngọc ngụ ý mình còn giỏi hơn cả tiến sĩ Phật Học Như Hạnh. Như vậy không còn vấn đề học thuật gì nữa trong sự phê phán của Trần Chung Ngọc đối với Như Hạnh, vì mục tiêu của Trần Chung Ngọc chỉ là thể hiện thái độ sùng bái bản thân mình bằng cách xuyên tạc và mạ lỵ người khác.
    Tôi xin nhắc lại : bài tôi viết cũng không phải vì vấn đề học thuật, vì Trần Chung Ngọc không có học thuật gì để phải tranh luận. Tôi viết chỉ để lột mặt nạ (unmask) những động cơ tâm lý xấu xa dẫn đến thái độ sùng bái những tay bách khoa bá láp và miệt thị những người làm việc nghiêm túc trong lãnh vực chuyên môn của họ.

    (1) Dale S.Wright, xem bài “Rethinking Transcendence : The Role of Language in Zen Experience” trong tạp chí Philosophy East and West 42/t (1992). 113-38.

    (2) Takayuki Nagashima, Truth and Fabrications in Religion, London, Arthur Probsthain, 1978, tr.127.
    (3) Steven Heine, Dogen and the Koan Tradition, State University of New York Press, 1994, tr. 74.
    (4) Philip II. Yampolsky, The Platform Sutra of the Sixth Patriarch (Pháp Bảo Đàn Kinh), New York, Columbia University Press, 1967, tr. 4-5.

    _________________
    Tiến Sĩ Dương Ngọc Dũng: BA (Đại Học Harvard (USA), MBA (UBI) – Ph.D Đại Học Boston (USA)
    Giáo Sư Phật Học Đại Học TP Hồ Chí Minh.
    – Kinh nghiệm giảng dạy trên 20 năm.
    – Ông đã tham gia giảng dạy các chương trình liên kết quốc tế, các chương trình MBA (chương trình liên kết giữa các đơn vị Việt Nam và các trường đại học quốc tế và nhiều năm tham gia quản lý và điều hành tại Công Ty Vạn Phát Hưng, Tham gia phiên dịch, huấn luyện cho nhiều tổ chức trong và ngoài nước ( LG Vina, Samsung, Cargill, Lãnh sứ quán Mỹ, Sở ngoại vụ, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư…) về các chủ đề tài chính, quản trị rủi ro, chứng khoán…
    – Biên soạn và phiên dịch nhiều tác phẩm về quản trị doanh nghiệp: Định vị thương hiệu, Chiến lược cạnh tranh theo Michael Porter, Tư vấn quản lý, Những nguyên tắc căn bản đầu tư chứng khoán, Những bong bong tài chính của Greenspan… và nhiều tác phẩm khác.

    _________________

    Đôi hàng về tác giả Trần Chung Ngọc
    Sinh năm 1931 tại Hà-Nội.
    1952: Tốt nghiệp trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định với cấp bậc Thiếu Úy.
    1956: Xin giải ngũ.
    1957: Quy Y Tam Bảo, Chùa Văn Thánh, Thị Nghè, Thượng Tọa Tuệ Đăng chứng minh
    1962: Cử Nhân Giáo Khoa Khoa Học, Khoa Học Đại Học Saigon.
    1962: Bị gọi tái ngũ.
    1962-1965: Trưởng Khoa Khoa Học (Vật Lý và Hóa Học), Văn Hóa Vụ, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đồng thời dạy thực tập Vật Lý ở Đại Học Đà Lạt, và dạy Vật Lý lớp 12 ở Collège d’Adran, Đà Lạt.
    1965: Được giải ngũ
    1965-1967: Giảng Nghiệm Viên, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon.
    1967: Được học bổng đi Mỹ học về ngành Vật Lý ở Đại Học Wisconsin – Madison.
    1972: Tốt nghiệp Ph.D., Vật Lý, Đại Học Wisconsin – Madison.
    Luận Án: Kinematic Low-Energy Electron Diffraction Intensities From Averaged Data: A Method For Surface Crystallography.
    1972-1975: Giảng sư, Ban Vật Lý, Khoa Học Đại Học Saigon. Giáo sư thỉnh giàng: Đại Học Vạn Hạnh, Trường Kỹ Thuật Thủ Đức (1), Trường Kỹ Thuật Cao Thắng. Đồng thời, cùng với các Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Ích (M.I.T), Vũ Thượng Quát (Cal.Tech), Huỳnh Văn Quảng (S.I.U), được tuyển làm Chuyên Viên Đại Học, trực thuộc Thứ Trưởng Giáo Dục, trước là Đỗ Bá Khê, sau là Bùi Xuân Bào, đặc trách xét văn bằng ngoại quốc tương đương với các văn bằng Việt Nam, cùng nghiên cứu cải tổ chương trình giáo dục đại học.
    1975-1977: Post Doctorate Fellow, Physics Department, University of Wisconsin- Madison.
    1977-1996: Manager, Surface Analysis Laboratory, Materials Center, University of Wisconsin – Madison. Direct and conduct research in the field of Surface Analysis using new techniques such as AES (Auger Electron Spectroscopy); ESCA (Electron Spectroscopy for Chemical Analysis); SEM (Scanning Electron Microscopy); SIMS (Secondary Ion MassSpectroscopy) etc…
    1989: Tháng 11: Được mời sang Singapore làm Cố Vấn Kỹ Thuật ở SISIR (Singapore Institute of Standards and Industrial Research)
    1996 – To date: Về hưu. Nghiên cứu Đạo Phật, Thiên Chúa Giáo, Lịch sử v..v… từ trần lúc 11:00 AM ngày Thứ Tư 29 tháng 01 năm 2014 tại Illinois (Mỹ). Hưởng thọ 83 tuổi.

    (1) niên khóa 1973-1974, chỉ có vài giờ ở đây, không nhớ chính xác tên trường là Kiểu Mẫu Thủ Đức hay Đại Học Kỷ Thuật Thủ Đức.

    _________________

    Xem tài liệu về AES (Auger Electron Spectroscopy) trong attachment.

  2. Giết Việt Cộng permalink

    Địt mẹ thằng chó đẻ Xích Lô Việt.

    Mày bú cặc liếm đít thằng chó đẻ Hồ Chó Minh chưa đã hay sao mà mày muốn bú cặc Mỹ Nguỵ?
    Hả họng to ra ông nội mày đây ỉa vào họng chó đẻ của mày.

    Cút về VN bú cặc Việt Cộng đi mày.

    • Long Hanoi permalink

      Mày đau thế là vui rồi . Loại đỉa như mày thì cứ thỉnh thoảng lại nhỏ chút vôi để xem mày giãy giụa cho sướng mắt . Lũ chúng mày đúng là bọn thất trận la liếm nhục nhã , suốt đời chỉ làm nô lệ để kiếm miếng đut vào mõm thôi con ạ. Cả đời lũ mày càng cay cú chúng ông càng sung sướng , hả hê.

    • Bạn Long Hanoi nói đúng đó, cái tên Giết Việt Cộng đã rất xấu rồi, lại đói văn hóa từ rất lâu năm rồi thì làm gì có nhận thức đâu mà phân biệt đúng, sai

  3. anh xlv lập lận ok lắm . chu tắc tiếng ko đủ bản lingx và trí tuệ phang lại đâu . tôi đã đụng rồi .

  4. khoia môn permalink

    các trang rất hay, nhưng thấy các bạn nhắc còn thiếu:
    sachhiem.net
    giaodiem.online
    …….?
    …….?

  5. chuyen permalink

    Từ lúc biết KBCHN rồi biết trang này thế là khổ cháu rồi, ngày nào cũng phải lên đây chờ bài mới cho bằng được, chờ từng ngày …
    Việt Weekly, phoBolsaTV, KBCHN và XichLoViet rất cám ơn các chú các bác.

  6. Bài của xichloviet như là đặc sản ấy, lâu lâu mới được 1 miếng nhưng mà ngon tuyệt!

  7. Hải Vân permalink

    Bắt đầu từ khi tình cờ biết được trang này tôi đã bắt đầu có thói quen thường xuyên ghé thăm. Mong bác có nhiều bài hay để mọi người thực sự hiểu rõ CS là gì? và tại sao lại phải chống họ…và hiểu cờ vàng là ai và họ luôn luôn gì

  8. Hong ha permalink

    Thực ra Chu Tất Tiến không thể đối thoại được với lý lẽ của hắn, vì:
    – GS Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang … viết về các vấn đề một cách chân thực, khách quan, có tâm, có tầm. Bài viết của các ông rất sâu sắc, và chứa đựng tấm lòng yêu nước vô bờ bến.
    – Du đãng Chu Tất Tiến không có đủ trình độ, không đủ tư cách để đối thoại với bất cứ ai, chứ đừng nói đến các trí thức nói trên, Hơn nữa hắn đã bị nhồi sọ quá nặng, tư tưởng thì ấu trĩ, cực đoan, đầu thì sáo rỗng … Vây làm sao mà đối thoại hả Chu Tất Lùi.

    • Long Hanoi permalink

      Chu Tất Tiến làm sao mà đối thoại bình đẳng với Trần Chung Ngọc và Nguyễn Mạnh Quang được . Tiến bất tài thất đức còn ông Ngọc ông Quang thì tài đức như thế chấp làm gì những kẻ như Tiến như Đõ Mậu …

  9. TienManh permalink

    Sao hồi này bác viêt ít vậy,viết nhiều vào chứ .Đọc bài của bác cháu thấy thích vô cùng.cảm ơn bác nhièu.

  10. Hùng permalink

    Lâu lắm bác Xichloviet mới lại có bài hay thế này. Khâm phục, khâm phục. Hihi.

Trackbacks & Pingbacks

  1. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Bắt hết rận chó - Giải trừ chiên ghẻ - Tận diệt ba que
  2. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Rận chó cõng rắn cắn gà nhà, ba que sủa láo để kéo quần, chiên ghẻ đã, đang và sẽ là những "Con ngựa thành Troie" phục binh làm nội ứng cho t
  3. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Thích chọc Cờ-hó xứ người (CxN) sủa
  4. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Khinh hậu duệ VNCH vẫn còn NÓI LÁO nối giáo cho giặc do cay CSVN nên chưa biết hối cải để chung tay xây dựng Tổ quốc còn đòi lại Hoàng Sa mà cha ông ch
  5. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Khinh hậu duệ VNCH vẫn còn NÓI LÁO nối giáo cho giặc do cay CSVN nên chưa biết hối cải để chung tay xây dựng Tổ quốc còn đòi lại Hoàng Sa mà cha ông ch
  6. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Khinh hậu duệ VNCH vẫn còn NÓI LÁO nối giáo cho giặc do cay CSVN nên chưa biết hối cải để chung tay xây dựng Tổ quốc còn đòi lại Hoàng Sa mà cha ông ch
  7. TỰ SỰ CỦA CON CHIÊN CỜ VÀNG | Khinh hậu duệ VNCH chưa biết hối cải để chung tay xây dựng Tổ quốc còn đòi lại Hoàng Sa mà cha ông chúng đã dâng cho Tầu 1974
  8. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Khinh hậu duệ VNCH chưa biết hối cải để chung tay xây dựng Tổ quốc còn đòi lại Hoàng Sa mà cha ông chúng đã dâng cho Tầu 1974
  9. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “đối thoại” | Khinh hậu duệ VNCH chưa biết hối cải để chung tay xây dựng Tổ quốc còn đòi lại Hoàng Sa mà cha ông chúng đã dâng cho Tầu 1974
  10. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Khinh hậu duệ VNCH chưa biết hối cải để chung tay xây dựng Tổ quốc còn đòi lại Hoàng Sa mà cha ông chúng đã dâng cho Tầu 1974
  11. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Bang giao với Vatican hoàn toàn không có ích lợi mà là rước họa vào nhà. Bọn giáo gian đã, đang và sẽ là "Con ngựa thành Troie" phục binh làm nội
  12. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Ba que và dê Chúa
  13. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | 3 que và dê Chúa
  14. KHI CON CHIÊN CỜ VÀNG ĐÒI “ĐỐI THOẠI” | Antivichoco
  15. Khi con chiên cờ vàng đòi “đối thoại” « Nhân dân Việt Nam
  16. Khi con chiên cờ vàng đòi “đối thoại” | Tôn giáo phục vụ dân tộc chứ không phục vụ quyền lực ngoại bang
  17. Khi con chiên cờ vàng đòi “đối thoại” | Nhân dân Việt Nam

Bình luận về bài viết này